Mã thông tin của Thượng Đế

DNA trong các sinh vật sống là bằng chứng sống động cho thấy có một Đấng Tạo Hóa. Nó mang những thông tin không thể đến từ các nguồn lực tự nhiên, nhưng từ một Đấng Chí Tôn thông thái.
Ảnh từ lifehopeandtruth.com

Trên thế giới, nhiều người không tin rằng Chúa tồn tại, tự xưng mình là người vô thần. Những người khác tin rằng có Chúa, nhưng họ chưa chứng minh được sự tồn tại của Ngài. Còn những người theo thuyết bất khả tri thì không chắc liệu Chúa có tồn tại hay không. Chúa nói về những người không tin Ngài tồn tại: “Bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rô-ma 1:20).

Câu Kinh Thánh này áp dụng cho cả loài người. Từ ban đầu, con người có thể thấy những thứ được Chúa tạo ra, sự phức tạp và trật tự đáng kinh ngạc của công trình sáng tạo. Nhưng trong hàng ngàn năm, loài người vẫn chưa nhận thức được một phần tuyệt vời của sự sáng tạo, ẩn giấu trong từng tế bào của mọi sinh vật sống: DNA.

Năm 1953, James Watson và Francis Crick trở thành những nhà khoa học đầu tiên xây dựng mô tả chính xác về cấu trúc xoắn kép của DNA.

Kể từ khi được phát hiện, DNA trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hấp dẫn. Các nhà khoa học bắt đầu sắp xếp trình tự bộ gen người vào năm 1990, và một dự thảo đã được hoàn thành vào năm 2000. Vào ngày 26 tháng 6 năm 2000, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên dương những người hoàn thành trình tự bộ gen người, và thừa nhận DNA là sáng tạo của Chúa. Ông nói: “Ngày hôm nay, chúng ta được hiểu về loại ngôn ngữ mà Chúa đã sử dụng để sáng tạo nên Sự sống. Hơn bao giờ hết, chúng ta nghiêng mình trước sự phức tạp, trước vẻ đẹp và sự diệu kỳ của món quà thần thánh nhất, thiêng liêng nhất của Ngài”.

Tiến sĩ Francis Collins, lãnh đạo Dự án bản đồ gen người đã theo tổng thống bước lên khán đài và tuyên bố: “Riêng với tôi, thật tuyệt vời và đáng kinh ngạc khi biết rằng lần đầu tiên chúng ta đọc được cuốn sách chỉ dẫn về chính bản thân mình, cuốn sách mà trước đó duy chỉ có Chúa biết đến”.

Điều đáng kinh ngạc là trong không gian cực nhỏ bé của mỗi tế bào trong cơ thể bạn, mã này dài đến 3 tỷ chữ cái!

Nhưng DNA là gì? Nếu nó thực sự là sáng tạo của một Nhà thiết kế thông minh và toàn năng, nó sẽ hoàn toàn chính xác, được mã hóa tối ưu và là phương pháp lưu trữ hiệu quả. Chúng ta sẽ giải quyết tất cả các khía cạnh này và thảo luận để hiểu được vì sao phân tử đáng kinh ngạc này phải có trong cuộc sống chúng ta.

DNA là gì?

DNA là tên viết tắt của axit deoxyribonucleic. DNA được tạo thành từ bốn hóa chất: adenine, guanine, cytosine và thymine, được biểu thị bằng các chữ cái A, G, C và T. Sự sắp xếp của bốn bazơ (nucleotide) này đóng vai trò là công thức cho các tế bào phiên mã, và sử dụng trong việc tạo ra protein từ axit amin. Các protein này sau đó được sử dụng cho các chức năng tế bào, tất cả mọi thứ từ việc mọc tóc đến biến thức ăn thành năng lượng.

Khi Bill Gates học sinh học ở trường trung học, ông thấy nó thật nhàm chán. Tuy nhiên, trong cuốn sách The Road Ahead/Con đường phía trước, ông giải thích một khái niệm đã thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của mình: “Tôi bước vào tuổi đôi mươi, tin rằng hóa học thú vị hơn nhiều so với sinh học. Sau đó tôi đọc Molecular Biology of the Gene/Phân tử Sinh học của Gen của James D. Watson – cuốn sách tuyệt vời khiến tôi nhận ra trải nghiệm thời trung học đã đánh lừa tôi. Sinh học, sự hiểu biết về cuộc sống bây giờ đối với tôi thú vị hơn nhiều so với hóa học. Sinh học là thông tin quan trọng nhất chúng ta có thể khám phá, bởi vì trong nhiều thập kỷ tới nó sẽ cách mạng hóa y học và mang đến phương pháp điều trị cho hầu hết các loại bệnh. DNA của con người giống như một chương trình máy tính, nhưng tiên tiến hơn nhiều so với bất kỳ phần mềm nào chúng tôi từng tạo ra” (1996, trang 227-228).

DNA có thể nhầm lẫn không?

DNA phải tự tái tạo mỗi khi một tế bào phân chia, vì vậy điều quan trọng là mã vẫn giữ nguyên trong mọi tế bào sinh vật. Độ chính xác của sự tái tạo này rất đáng kinh ngạc, từ các sinh vật đơn bào đơn giản nhất đến các sinh vật đa bào phức tạp nhất.

Hãy nhìn vào cả hai đầu quang phổ: vi khuẩn E. coli (prokaryote, tế bào không nhân, DNA lỏng lẻo bên trong tế bào) và con người (eukaryote, với các tế bào có nhân để chứa DNA).

“Phân tử DNA đơn là bộ gen của E. coli chứa 4,7 x 106 cặp nucleotide. Sự sao chép DNA bắt đầu tại một vị trí đơn, cố định trong phân tử này – điểm khởi đầu sao chép, tiến hành ở khoảng 1000 nucleotide mỗi giây, do đó được thực hiện trong không quá 40 phút. Nhờ vào độ chính xác của quy trình (bao gồm chức năng “đọc sửa bản sao’), chỉ có khoảng một nucleotide không chính xác trong mỗi 109 nucleotide được sao chép. Nói cách khác, bộ gen của E. coli (4,7 x 106)  được sao chép mà hầu như không mắc lỗi!

“Trung bình nhiễm sắc thể của con người chứa 150 x 106 cặp nucleotide được sao chép khoảng 50 cặp mỗi giây. Quá trình này sẽ mất một tháng, nhưng thực tế là có nhiều vị trí trên nhiễm sắc thể eukaryotic có thể bắt đầu quá trình sao chép… Khi quá trình gần hoàn thành, ‘bong bóng’ DNA vừa được sao chép sẽ gặp nhau và cuối cùng tạo thành hai phân tử mới (G. Tripathi, Cellular and Biochemical Science/Khoa học tế bào và sinh hóa, trang 353).

DNA có được mã hóa tối ưu không?

Hai mươi axit amin khác nhau tạo nên protein trong cơ thể con người, do đó, bốn ba-zơ (chữ cái) bằng cách nào đó phải mã hóa cho mỗi một axit amin. Theo quan điểm kỹ thuật, DNA có được mã hóa tối ưu không? Bốn chữ cái tạo thành bảng chữ cái và bộ ba chữ cái tạo thành từ ngữ (cô-đon).

Theo nhà khoa học và tác giả Werner Gitt, có bốn yêu cầu cho mã hiệu quả nhất:

  • Mã phải sử dụng ít vật liệu nhất để mã hoá cho ít nhất 20 axit amin.
  • Khi số lượng ký tự trong bảng chữ cái tăng lên, độ phức tạp của bộ máy thực hiện cũng tăng lên. Điều này đòi hỏi nhiều tài liệu hơn và dẫn đến nhiều lỗi hơn trong quá trình sao chép, phiên mã và dịch mã.
  • Do hệ thống sao chép DNA (theo đó chuỗi xoắn kép được “giải nén” và mỗi chuỗi đơn nhận được các chữ cái bổ sung), số lượng chữ cái trong bảng chữ cái phải là số chẵn.
  • Để giảm lỗi trong nhiều quá trình sao chép, cần có phương án dự phòng chặt chẽ.

Tiến sĩ Gitt kết luận: “Từ quan điểm kỹ thuật, và theo các tiêu chí đã được xem xét ở đây, hệ thống mã được sử dụng trong các sinh vật sống để tổng hợp protein – bộ ba mã di truyền là tốt nhất trong tất cả các mã, đáp ứng bốn yêu cầu nhất định phải gặp. Điều này chứng tỏ thiết kế này là có chủ đích” (Without Excuse, 2011, trang 211).

DNA lưu trữ dữ liệu hiệu quả như thế nào?

Vì DNA sử dụng ít vật liệu nhất để mã hóa 20 axit amin, nên nó rất hiệu quả theo quan điểm lưu trữ dữ liệu. Tiến sĩ Gitt đưa ra các ví dụ để minh họa hiệu quả này:

  • DNA với kích thước chỉ bằng đầu đinh ghim sẽ chứa nhiều thông tin như 25 nghìn tỷ cuốn sách bìa mềm 189 trang. Số lượng sách như vậy sẽ cao gấp 920 lần khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng.
  • Nếu bạn kéo dài một miligam của một chuỗi xoắn kép vật liệu DNA, bạn sẽ phải kéo dài từ trái đất đến mặt trăng (Without Excuse, trang 288).

Thực tế, khả năng lưu trữ tuyệt vời của DNA đã khiến một số nhà khoa học cố gắng khai thác nó để lưu trữ dữ liệu! ExtremeTech báo cáo rằng “một nhà nghiên cứu sinh học và di truyền học tại Viện Harvard Wyss đã lưu trữ thành công 5,5 Petabits dữ liệu, khoảng 700 terabyte trong một gram DNA”.

Ý nghĩa cho sự tiến hóa

Tiến sĩ Gitt, cựu giáo sư hệ thống thông tin giải thích: “Lỗ hổng cơ bản của tất cả các quan điểm tiến hóa là nguồn gốc thông tin trong các sinh vật sống. Chưa ai chứng minh được rằng một hệ thống mã hóa và thông tin có thể tự hình thành [thông qua vật chất]. Các định lý thông tin dự đoán rằng điều này không bao giờ có thể. Do đó, giả thuyết rằng sự sống có nguồn gốc vật chất thuần túy đã bị loại trừ (In the Beginning Was Information, 2005, trang 123).

Theo nghĩa đen, không thể nào nói rằng: DNA với tất cả sự phức tạp, chính xác và cần thiết cho sự sống chỉ là sự tiến hóa. Chẳng khác nào nói rằng Thuyết tiến hoá của Darwin đã ra đời mà không có một tác giả hay khái niệm ngôn ngữ có sẵn nào!

Một số nhà khoa học trước đây ủng hộ thuyết tiến hóa đã đảo ngược quan điểm của họ vì những khám phá về thông tin tìm thấy trong DNA.

Dean Kenyon, giáo sư sinh học đã bác bỏ cuốn sách của ông về thuyết tiến hóa của Darwin: “Lĩnh vực di truyền phân tử mới này là bằng chứng thuyết phục nhất rằng Trái đất đã được thiết kế rõ ràng ( trích dẫn bởi Lee Strobel trong The Case for a Creator, 2004, trang 221).

Người vô thần nổi tiếng nhất thế giới, Giáo sư Antony Flew thừa nhận ông không thể giải thích làm sao DNA có thể được tạo ra và phát triển thông qua quá trình tiến hóa, nên đã chấp nhận rằng cần phải có một trí thông minh siêu phàm để tạo ra mã DNA.

“Sau nhiều thập kỷ niềm tin khăng khăng là một sai lầm, ở tuổi 81 Antony Flew đã kết luận rằng trí thông minh đã tạo ra vũ trụ. Một trí thông minh siêu nhiên là lời giải thích duy nhất cho nguồn gốc của sự sống và sự phức tạp của thế giới tự nhiên”, Flew nói trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại từ Anh.

“Nghiên cứu về DNA của các nhà sinh vật học cho thấy, bởi sự sắp xếp cần thiết để tạo ra sự sống với mức độ phức tạp gần như không thể tin được, chắc chắn phải có trí thông minh tham gia”, Flew nói trong video mới, “Liệu khoa học đã phát hiện ra Chúa chưa?” (Richard Ostling, “Người vô thần hàng đầu bây giờ đã tin Chúa”, ngày 9 tháng 12 năm 2004).

Điều này có ý nghĩa gì với bạn?

Việc phát hiện ra DNA năm 1953 cho thấy thông tin dạng mã cần thiết cho cuộc sống như thế nào. Nhưng thông tin phức tạp như vậy không thể bắt nguồn từ những vật liệu đơn giản rơi vào đúng vị trí; nó buộc phải đến từ một Đấng Tạo Hóa thông minh siêu việt.

Quá trình sao chép DNA cho thấy cách thông tin này được truyền đi mà hầu như không có lỗi, sử dụng mã được thiết kế tối ưu để tạo nên các protein cần thiết cho sự sống.

Hôm nay, với những tiến bộ công nghệ, có thể thấy một vài khía cạnh nhỏ nhất trong công trình sáng tạo vĩ đại của Chúa, cung cấp thêm bằng chứng về “quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài” (Rô-ma 1:20).

Bạn có sẵn sàng đón nhận bằng chứng rằng Chúa có tồn tại qua công trình sáng tạo vĩ đại của Ngài không? Bạn sẽ chứng minh cho bản thân mình thấy rằng Ngài tồn tại? Và nếu Chúa có thật, liệu bạn có muốn tin và vâng phục Ngài không?

Nguồn: https://lifehopeandtruth.com
Hồng Nhạn dịch

Người Việt Nam có ý niệm về Ông Trời? (P.2)

Phần trước, chúng ta thấy rằng từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời, tin ông Trời và cầu khẩn ông Trời. Niềm tin này vốn có trong tiềm thức của người dân Việt ngay cả trước khi có các tôn giáo khác du nhập vào nước ta.
Ảnh bởi Daniel Burka trên Unsplash

Thờ Trời

Trải qua nhiều thế kỷ, ngay cả sau khi có các triết lý tôn giáo của Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo truyền đến, người dân Việt vẫn lấy tín ngưỡng thờ Trời làm nền tảng để giữ gìn truyền thống dân tộc, gia đình. Cả ba tôn giáo chính nói trên đã góp phần củng cố thêm cho niềm tin hợp với Đạo Trời. Ngay cả Phật Giáo với khái niệm mờ nhạt về ông Trời khi đến Việt Nam cũng phải chấp nhận ý niệm “Cầu Trời Khẩn Phật”.

Hợp lẽ Trời, thuận lòng người là đạo lý của người Việt Nam. Dù thực hành tín ngưỡng nào, người Việt ai nấy cũng công nhận:

“Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”

Nghĩa là thuận với Trời thì còn, nghịch với Trời thì mất. Chính vì đó mà người dân Việt thờ Trời. Ngay từ thời các Vua Hùng dựng nước, người ta đã biết thờ Trời. Mỗi năm nhà Vua thay mặt nhân dân lập đàn tế Trời, cầu Trời cho dân chúng an cư lập nghiệp. Trong gia đình, người cha thay mặt để cầu Trời phù hộ cho gia đình, con cháu hạnh phúc.

Các triết lý du nhập vào từ Trung Quốc hoặc Ấn độ đã không đồng hóa hoàn toàn tín ngưỡng của người dân Việt. Trái lại những tín ngưỡng nào phù hợp với tình cảm thiêng liêng trong sáng của người dân Việt thì được tiếp thu với tinh thần chọn lọc. Chịu ảnh hưởng của đạo đức Lão Trang, người Việt thường bảo nhau về cách ăn ở cho phải đạo, nhất là đạo làm con, đạo vợ chồng:

Đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ mẹ cha.

Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau.

Người Việt Nam cũng tiếp thu truyền thống giữ gìn “luân thường đạo lý” của Khổng Giáo thật nhuần nhuyễn và bình dị như cuộc sống gần gũi, lễ phép thân thương, kính trên nhường dưới trong gia đình. Luân là cái mà con người phải noi theo trong mối tương quan xã hội. Thường là sự việc không biến đổi theo không gian và thời gian mà con người phải giữ. Trong Ngũ luân với quan hệ quân thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu, người Việt trân trọng những đức tính Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa. Trong Ngũ thường, người Việt trân trọng giữ gìn nhân, nghĩa, lễ, trí, tín theo đạo lý làm người.

Anh làm trai học đạo thánh hiền Năm hằng chẳng trễ, ba giềng chớ sai.

Chữ hiếu được mọi người đặt lên hàng đầu:

Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên
Chữ rằng mộc bổn thủy nguyên
Làm người phải biết tổ tiên ông bà.

Bổn phận hiếu đễ được minh giải thêm:

Thờ cha mẹ ở hết lòng
Ấy là chữ hiếu ở trong luân thường
Chữ để có nghĩa là nhường
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên
Ghi lòng tạc dạ chớ quên

Con em phải giữ lấy nền con em.

Trong tinh thần phê phán chọn lọc, người Việt đã phân biệt chân giả, đúng sai trong từng tín ngưỡng thực hành. Chẳng hạn:

Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Hoặc ai nấy đều đồng ý:

Dẫu xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người.

Người Việt Nam phần lớn không tin ở thuyết luân hồi. Bằng cớ là nhiều người Việt thờ cúng ông bà, tin rằng vong linh ông bà vẫn còn đó. Mỗi năm nhân dịp Tết cổ truyền, người ta rước ông bà về vui xuân với con cháu rồi tiễn ông bà đi. Nếu tin ở thuyết luân hồi thì phải tin ông bà cha mẹ đã hóa kiếp thành người ngoại quốc nào khác, hoặc con thú nào đó trong rừng, hoặc một con vật nào đó trong bầy gia súc trong vườn. Tin như thế, người ta sẽ không rước tiễn ông bà, cũng không dám ăn thịt, đánh đập hoặc giết chết một con vật nào.

Người Việt Nam tin ở giá trị thiêng liêng bất tử của linh hồn, tin ở đời sau. Linh hồn của mọi người chết là về chầu Trời. Người Việt Nam là dân tộc hiền hòa nhưng bất khuất. Lúc có cần ai nấy đều có thể chịu đựng hy sinh vì nghĩa lớn. Trong quan hệ bình thường, người Việt áp dụng tinh thần dĩ hòa vi quý. Trong cuộc sống với nhiều điều không lý giải được, người Việt vẫn tin tưởng ở mệnh Trời, hy vọng một ngày mai tươi sáng hơn.

Không ai giàu ba họ
Không ai khó ba đời.

Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này?

Người Việt tin tưởng và yêu chuộng những nguyên tắc như:

Ở hiền gặp lành,

Ông Trời có con mắt,
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Lưới Trời lồng lộng, thưa mà không lọt,

Thiên bất dung gian.

Người Việt quý trọng và ao ước những giá trị Trời ban như thiên ân, thiên tài, thiên bẩm, thiên chức, thiên hương, thiên tướng, thiên tư. Người Việt giữ gìn truyền thống tương thân tương trợ những khi tối lửa tắt đèn.

“Bà con xa không bằng láng giềng gần.”

Câu tục ngữ “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng,” đã được đem ra áp dụng thường xuyên trong những lúc hoạn nạn, tai ương với nhiều kết quả tốt đẹp. Trong quan hệ giữa người với người, người Việt luôn luôn giữ lấy chữ tình:

Phàm sự lưu nhân tình
Hậu lai hảo tương kiến.

Chính nhờ đó mà dân Việt Nam muôn đời vẫn còn tồn tại.

Ảnh bởi ThachSanh trên Pixabay

Người Việt hiểu biết về “ông Trời” chưa đầy đủ

Giống như nhiều dân tộc khác trên thế giới, sự nhận biết về Đức Chúa Trời có thể nói là một thứ nguyên chi tự nhiên mà ông Trời ban cho nhân loại. Dân tộc nào cũng có chữ ông Trời hay Đấng Tạo Hóa trong ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.

Thật vậy, khi nhìn xem vạn vật, thiên nhiên, với cảnh trí đẹp đẽ tuyệt vời, với không gian bao la vô tận, với sự cấu tạo tinh vi, diệu kì, muôn hình vạn trạng, với quy luật bốn mùa xuân hạ thu đông trật tự chính xác vô cùng, với bản năng lạ lùng bất biến của các loài vật… rồi nhìn lại con người với thân thể kỳ diệu, với mầu nhiệm sinh sản, với tình cảm thiêng liêng, với những giá trị tinh thần, với những kinh nghiệm về quy luật đạo đức trải qua các đời, với ý chí tự do lựa chọn… Cùng với bao nhiêu chứng cớ khác nữa trong cuộc sống, người ta phải thừa nhận có Đấng Tạo Hóa, có ông Trời.

Chính ông Trời đã tạo dựng nên tất cả, Ngài đang điều khiển, bảo tồn tất cả những quy luật thiên nhiên và đạo đức trên thế giới này. Nhưng thiên nhiên chưa đủ để con người biết rõ về thuộc tánh, ý muốn và chương trình vĩnh cửu của Đức Chúa Trời. Bởi trong thực tế khi nhìn thiên nhiên có người suy luận hữu thần, có người suy luận phiếm thần, hoặc có người suy luận đa thần, thậm chí cũng có người suy luận vô thần. Thiên nhiên chưa đủ để người ta biết rõ Đức Chúa Trời thực hữu độc lập với các tạo vật do Ngài dựng nên và Ngài là Chân Thần Duy Nhất, (thần chân thật tối cao và độc nhất)

Người Việt biết có ông Trời nhưng chưa biết Đức Chúa Trời là Chân Thần, là Đấng Tạo Hoá duy nhất tối cao. Người Việt biết ông Trời có bản tính công bình nhưng chưa biết Đức Chúa Trời là Đấng đầy ân điển và yêu thương. Người Việt tin mệnh Trời không ai thay đổi được, kể cả số phận của mỗi người cũng được an bài, nhưng người Việt chưa biết Đức Chúa Trời là Đấng tôn trọng ý chí tự do của con người và là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài. Người Việt biết mình cần ăn hiền ở lành, nhưng không biết rằng tất cả những việc lành mình làm dù cao quý vẫn còn thiếu hụt, không thể sánh với tiêu chuẩn trọn lành Đức Chúa Trời đòi hỏi, giống như nào ngọn đèn cầy đem so với ánh mặt trời.

Người Việt cần đón nhận chân lý của ông Trời để bù đắp cho sự thiếu hụt của mình. Người Việt biết nguyên tắc “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” nhưng không biết căn nguyên của mọi nỗi đau khổ bất hạnh trong cuộc đời là do tội lỗi loài người xoay lưng phản nghịch lại với Đức Chúa Trời. Người Việt cần trước hết được Chúa tha tội.

Người Việt biết mình cần được cứu rỗi và đã khổ công đi tìm sự cứu rỗi nhưng chưa biết con đường cứu rỗi duy nhất là chương trình do Đức Chúa Trời vạch sẵn đã được thực hiện bởi Con Ngài là Chúa Giê-xu. Người Việt cần đặt đức tin nơi sự toàn năng, toàn tri, tồn thiện, tồn mỹ của một Đức Chúa Trời chân thật.

Nhiều niềm tin của người Việt về ông Trời rất gần với Thánh Kinh, nhưng chưa đầy đủ. Một số người do không biết Thánh Kinh nên cứ tưởng ông Trời là hình ảnh Ngọc Hoàng Thượng đế tưởng tượng của người Trung Hoa. Thậm chí có người tin chuyện Tề Thiên Đại Thánh là thật, theo đó Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng chịu thua Tôn Ngộ Không. Chính vì thế mà người Việt chúng ta cần có sự tỏ tường đặc biệt, đúng đắn, trực tiếp từ Đức Chúa Trời. Sự tỏ tường đặc biệt này chỉ có thể tìm được trong Thánh Kinh và qua Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Vì niềm tin là biết và nắm chắc điều mình tin tưởng dù mắt chưa thấy được. Thế nên ông Trời đã tỏ bày rõ ràng về chính Ngài trong cuốn sách của thiên nhiên tạo vật và cũng trong cuốn sách Thánh Kinh. Chúng ta không còn lý do gì để lưỡng lự mà chạy đến với Đấng Tạo Hóa, là Cha tạo ra muôn loài trong đó có chính bạn, chính tôi và dân tộc Việt.

bởi Nguyễn Văn Huệ

Con người là gì? (P.2)

Bạn chấp nhận lời dạy rằng linh hồn là bất tử? Bạn có nghĩ rằng cái chết chỉ là con đường dẫn đến sự bất tử? Hay bạn bắt đầu khám phá ra rằng Chúa đã đặt trước mặt chúng ta hai lựa chọn: sự sống đời đời hay sự chết vĩnh viễn?
Ảnh bởi Angela Yuriko Smith trên Pixabay

Con người là một linh hồn bất tử?

Tôn giáo hiện đại đã chấp nhận lời nói dối của con rắn (satan) và tin rằng con người thực sự bất tử. Tuy nhiên, Lời Chúa trong Kinh Thánh tuyên bố rõ rằng con đường duy nhất dẫn A-đam đến sự bất tử là qua cây sự sống, tượng trưng Thần Linh của Đức Chúa Trời.

Hãy chú ý đến lý do Chúa đuổi người nam và người nữ ra khỏi Vườn Địa Đàng, “Vậy bây giờ coi chừng nó cũng đưa tay ra hái trái cây sự sống mà ăn và sống mãi mãi!” (sách Sáng thế, chương 3 câu 22)

Đức Chúa Trời đã ban cho tổ phụ chúng ta một cơ hội rất lớn – ăn trái của cây sự sống, nhờ đó họ sẽ trao phó cuộc sống của mình cho Chúa, dẫn đến sự sống mãi mãi trong gia đình Ngài. Nhưng họ đã từ chối đề nghị đó, không vâng lời Chúa và ăn trái cây biết điều thiện và điều ác, qua đó họ đã trao cuộc sống của mình cho satan (con rắn). Kể từ đó, satan bắt đầu ảnh hưởng và lừa dối nhân loại.

Vậy thì con người là gì?

Hãy nói lại một cách dứt khoát: Con người không phải là linh hồn bất tử, và cũng không có linh hồn bất tử. Lời nói dối của satan đủ để Ê-va và A-đam mắc mưu rồi phạm tội. Kể từ đó, những tuyên bố trong Kinh Thánh cũng bị hiểu sai vì hệ quả của lời dối trá đó, và dẫn đến sự nhầm lẫn càng thêm về tình trạng loài người.

Sự thật là con người có phần tâm linh – yếu tố được tạo ra theo hình ảnh Đức Chúa Trời. “Nhưng chính Thần Linh của Đức Chúa Trời ở trong người, chính hơi thở của Đấng Toàn Năng ban cho người sự khôn sáng.” (sách Gióp, chương 32 câu 8).

Ảnh bởi AdonesFAO trên Pixabay

Khả năng đáng kinh ngạc của con người 

Kinh Thánh cho biết loài người có một năng lực đáng kinh ngạc.

Khi kết hợp tất cả những câu Kinh Thánh này lại với nhau, chúng ta sẽ hiểu con người là gì  con người bằng xương bằng thịt. Con người được tạo ra từ bụi đất và trở nên sống động bởi hơi thở sự sống. Sự sống con người hoàn toàn vật chất và tạm thời. Con người không bất tử và không có linh hồn bất tử.

Nhưng con người được tạo ra có khả năng kết nối với Đấng Tạo HóaCon người có khả năng đón nhận Thần Linh Chúa vào trong tâm trí và tâm linh mình, điều khiến con người trở nên con cái Đức Chúa Trời. Kết quả cuối cùng của sự biến đổi đó là: trở nên con Đức Chúa Trời, có tâm linh được tái tạo sống động và sống đời đời như một thành viên của gia đình Đức Chúa Trời.

Ảnh trên Pixabay

Con cái của Đức Chúa Trời?

Hãy kiểm tra thêm một vài quan điểm Kinh Thánh để trả lời câu hỏi: Con người là gì? Tiềm năng của chúng ta là gì? Trong sách Rô-ma có nói rằng: “Vì hết thảy người nào được Thần Linh Chúa dắt dẫn, đều là con của Đức Chúa Trời” (sách Rô-ma, chương 8 câu 14).

Kinh Thánh mô tả toàn bộ quá trình chuyển đổi của Cơ Đốc nhân từ xác thịt hay hư nát thành linh hồn sống đời đời: “Thưa anh chị em, tôi muốn nói thế này: Thể xác và máu không thể thừa hưởng Nước Đức Chúa Trời được. Sự hư nát cũng không thể thừa hưởng sự không hư nát. Này, tôi cho anh chị em biết một sự huyền nhiệm: Không phải tất cả chúng ta đều sẽ ngủ, nhưng tất cả đều sẽ được biến hóa. Trong tích tắc, trong nháy mắt, khi tiếng kèn chót thổi. Vì kèn sẽ thổi lên, những người chết sẽ sống lại không hư nát và chúng ta sẽ được biến hóa. Vì sự hư nát này phải mặc lấy sự không hư nát và sự hay chết sẽ mặc lấy sự bất tử.” (Sách Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 15 câu 50-53).

Biết được sự thật này, chúng ta có thể nói: “Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Đức Chúa Trời thật sâu thẳm!
Sự phán xét của Ngài không ai thấu triệt,
Đường lối Ngài không ai dò tìm nổi.”
 (Sách Rô-ma, chương 11 câu 33).

Tương lai mờ mịt của những người không tin mô tả: “Nhưng anh chị em không biết ngày mai đời sống mình ra sao! Anh chị em giống như hơi nước, hiện ra chốc lát rồi biến mất.” (sách Gia-cơ, chương 4 câu 14).

Ảnh bởi Johnhain trên Pixabay

Sự lựa chọn

Ngay cả người chết cũng phải thay đổi để được ở với Chúa. Lúc này đây, họ không hề bất tử trên thiên đàng. Tuy nhiên, hàng triệu người đang bị lừa dối và không tin những gì Chúa nói. Họ không biết con người thật sự là gì!

Còn bạn thì sao? Bạn chấp nhận lời dạy rằng linh hồn là bất tử? Bạn có nghĩ rằng cái chết chỉ là con đường dẫn đến sự bất tử? Hay bạn bắt đầu khám phá ra rằng Chúa đã đặt trước mặt chúng ta hai lựa chọn: sự sống đời đời hay sự chết vĩnh viễn?

Quyết định là của bạn!
Bạn có thể tự mình tìm hiểu trong Kinh Thánh và đầu phục trước ý muốn Chúa cho cuộc đời bạn chứ?

Bởi vì bạn là con người, được tạo ra theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, bạn có tiềm lực đáng kinh ngạc để trở nên thành viên gia đình Đức Chúa Trời. Thật tuyệt vời làm sao! Bạn sẽ chọn tương lai tươi sáng mà Chúa đã dành sẵn cho bạn chứ? Chúng tôi hy vọng như thế.

Nguồn: Life Hope and Truth

Hồng Nhạn dịch

Người Việt có ý niệm về Ông Trời ? (P.1)

Hành vi của con người được xác định bởi mục đích cuộc đời họ. Nhìn vào lịch sử, văn hóa, cuộc sống của bạn, của tôi, của người Việt Nam, chúng ta có thể thấy một niềm tin mãnh liệt thể hiện mục đích sống đó. Niềm tin vào sự tể trị của Ông Trời, trong đó vận mệnh của tôi, của bạn, của con người do Trời định đoạt.
Ảnh bởi HoangTuan trên Pixabay

Kêu Trời

Điều dễ hiểu nhất và không ai phủ nhận được là hễ gặp bất cứ việc gì bất chợt xảy đến, dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, câu nói buột miệng của người Việt Nam trước hết là kêu: “Trời ơi!” 

Khi rủi ro đứt tay, vấp chân, té ngã, người ta kêu Trời. Khi gặp buồn khổ, chán nản, chết chóc, thất bại, người ta kêu Trời. Khi thành công, hạnh phúc, bình an, người ta nói ‘Nhờ Trời’. Khi gặp tai nạn người ta kêu Trời cứu, cầu Trời cho tai qua nạn khỏi…

Kính Trời

Tuy không biết rõ ông Trời là Đấng như thế nào, nhưng người Việt Nam ai cũng kính Trời vì hiểu rằng có con người ta đây là vì có ông Trời. Trong ngôn ngữ bình dân, dù là câu nói vui đùa, mỗi khi xưng hô nhắc đến Trời thì người ta không dám nói thiếu chữ ông đi trước chữ Trời. Người ta gọi ông Trời với lòng tôn kính. Người Tin Lành tôn thờ Ngài nên gọi Ngài là Đức Chúa Trời. Một cô gái quê vui đùa hỏi bí bạn trai:

Thấy anh hay chữ Em hỏi thử đôi lời:
Thuở tạo thiên lập địa Ông Trời tròn ai xây?

Ảnh bởi Kiril Dobrev trên Unsplash

Cầu Trời

Người Việt phần lớn sống bằng nông nghiệp, biết rằng mùa màng được hay mất cũng do Trời.

“Nhờ Trời năm nay được mùa!”

Người nông dân lúc nào cũng tâm nguyện cầu Trời cho cơm no áo ấm:

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…

Hoặc họ truyền tụng về ơn Trời bằng những câu ca dao, bài hát bình dân:

Nhờ Trời mưa thuận gió hòa,
Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.
Lạy Trời mưa thuận gió đều,
Cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em.

Người Việt thường tôn trọng chữ hiếu và mong cho cha mẹ sống lâu, gia đình được phước. Vì thế họ lập bàn thờ Thiên để thờ Trời ngay trước cửa nhà. Người con có hiếu từng đêm đến trước bàn thờ cầu khẩn:

Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Ảnh bởi giangchubinh trên Pixabay

Tin Trời

Trải bao đời, người Việt tin ông Trời là Đấng Tạo Hóa, tạo thiên lập địa, Đấng cầm quyền sống chết, làm chủ vận mệnh muôn loài, quyền phép vô cùng. Người Việt Nam quen thuộc với những khái niệm:

– Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh.
– Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần.
– Trời sinh voi sinh cỏ.
– Trời cho ai nấy hưởng.
– Trời kêu ai nấy dạ.
– Sống nhờ ơn Trời, chết về chầu Trời.

Cũng có câu: “Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay.” Người Việt công nhận và tin tưởng ông Trời cầm quyền thành bại trong cuộc sống của loài người:

Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.

Người Việt tin Trời là Đấng công bình, cầm quyền họa phúc, vì vậy đã thường nhắn nhủ với nhau:

Ở hiền thì lại gặp lành
Những người nhân đức Trời dành phúc cho.

Người Việt cũng tin tưởng “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân,” nghĩa là Trời không phụ bạc người có lòng tốt bao giờ.

Trong hôn nhân lứa đôi, người Việt tin tưởng hạnh phúc vợ chồng do ông Trời sắp đặt:

Duyên ba sinh Trời đã sẵn dành.

Tuy nhiên đôi khi thấy số phận không may hoặc tình duyên dang dở, người ta thường ngửa mặt lên trời than thở, dường như muốn nói với Đấng Tạo Hóa hết nỗi lòng mình:

Chữ bạc mệnh ai ơi thấu với câu đa đoan Trời hỡi thấu chăng? (“Tự Tình Khúc” của Cao Bá Nhạ).

Trong cuộc sống với những nghịch lý, những bất công xã hội, những mơ ước không thành, người Việt cũng nhiều khi đã đưa ra thắc mắc với ông Trời:

Trời ơi, Trời ở chẳng cân
Người ăn không hết, người lần không ra
Người thì mớ bảy mớ ba
Người thì áo rách như là áo tơi?

Trong Cung Oán Ngâm Khúc cũng có câu:

Quyền họa phúc Trời giành mất cả
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai.

Nói thì nói vậy, nhưng người Việt thường chấp nhận hài lòng với khái niệm về Thiên Mệnh. Thi hào Nguyễn Du đã khuyên trong Truyện Kiều:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa
Thiện căn tự bởi lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Kết luận Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:

Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

Ảnh bởi HoangTuan trên Pixabay

Nhờ Trời

Lịch sử Việt Nam có ghi chép chuyện về Danh Tướng Lý Thường Kiệt, trong lúc kháng cự quân Tống xâm lăng, đã làm 4 câu thơ và loan truyền là do Thần Linh báo mộng ban cho để khích lệ tinh thần binh sĩ yên tâm đánh giặc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Học giả Hoàng Xuân Hãn đã dịch như sau:

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Đây là cách áp dụng chiến tranh tâm lý, mượn oai Trời. Kết quả là quân lính nức lòng đánh giặc, quân Tống không tiến được, đành giảng hòa. Rõ ràng câu chuyện này nói lên niềm tin mãnh liệt của dân tộc Việt nơi sự tể trị của ông Trời, trong đó mọi vận mệnh nhân dân đất nước do Trời định đoạt.

Nước non là nước non Trời
Ai chia được nước ai dời được non.

Người Việt chúng ta đã tiếp diễn niềm tin Thiên hướng cho vận mệnh của mình ra sao? Hãy đón đọc phần tiếp theo!

bởi Nguyễn Văn Huệ


Trầm cảm là gì?

Mọi người đôi khi cảm thấy buồn. Nhưng những cảm giác này thường ngắn ngủi và vượt qua trong vòng một vài ngày. Khi bạn bị trầm cảm, nó ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, các chức năng vận hành, và gây đau đớn cho cả bạn và những người quan tâm đến bạn. Trầm cảm là một bệnh thông thường nhưng nghiêm trọng. 

Mọi người đôi khi cảm thấy buồn. Nhưng những cảm giác này thường ngắn ngủi và vượt qua trong vòng một vài ngày. Khi bạn bị trầm cảm, nó ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, các chức năng vận hành, và gây đau đớn cho cả bạn và những người quan tâm đến bạn. Trầm cảm là một bệnh thông thường nhưng nghiêm trọng. 

Nhiều người bị bệnh trầm cảm không bao giờ tìm cách điều trị. Nhưng phần lớn, thậm chí những người có suy thoái nghiêm trọng nhất, có thể bình phục lại tốt hơn với những trị liệu.

Một số hình thức rối loạn trầm cảm. 

Rối loạn trầm cảm chủ yếu (Major depressive disorder) triệu chứng nặng, ảnh hưởng đến khả năng làm việc, ngủ, học tập, ăn, và tận hưởng cuộc sống.

Rối loạn tâm trạng chán nản (Persistent depressive disorder – PDD) dai dẳng kéo dài trong ít nhất 2 năm. Một người được chẩn đoán mắc chứng rối loạn trầm cảm dai dẳng có thể có các giai đoạn trầm cảm nặng cùng với thời gian các triệu chứng ít nghiêm trọng, nhưng các triệu chứng phải kéo dài trong 2 năm. 

Một số hình thức của bệnh trầm cảm là hơi khác nhau, hoặc họ có thể phát triển trong những trường hợp đặc biệt.

Trầm cảm tâm thần, xảy ra khi một người có trầm cảm nặng, cộng với một số hình thức rối loạn tâm thần, chẳng hạn như có làm ảnh hưởng đến niềm tin sai lệch hoặc méo mó với thực tế, hoặc nghe hoặc nhìn thấy những điều gây bấn loạn mà những người khác không thể nghe hoặc nhìn thấy. 

Trầm cảm sau sinh, đó là nghiêm trọng hơn nhiều so với “baby blues” (trạng thái ủ rủ) kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ sau khi sinh, khi nội tiết tố và những thay đổi về thể chất và trách nhiệm mới của chăm sóc cho một trẻ sơ sinh có thể được áp đảo. Người ta ước tính rằng 10 đến 15 phần trăm phụ nữ bị trầm cảm sau khi sinh sau khi sinh. 

Rối loạn tình cảm theo mùa (SAD), được đặc trưng bởi sự khởi đầu của bệnh trầm cảm trong suốt những tháng mùa đông, khi có ánh sáng mặt trời tự nhiên ít hơn. Các trầm cảm nói chung gia tăng vào mùa xuân và mùa hè. SAD có thể được điều trị hiệu quả với liệu pháp ánh sáng, nhưng gần một nửa trong số những người có SAD không phục hồi tốt với chỉ liệu pháp ánh sáng. 

Rối loạn lưỡng cực, còn được gọi là bệnh hưng-trầm cảm, không phải là phổ biến như trầm cảm hoặc rối loạn trầm cảm dai dẳng. Rối loạn lưỡng cực được đặc trưng bởi chu kì thay đổi, từ tâm trạng lên thật cao (hưng cảm) xuống mức thấp cực kỳ (trầm cảm). 

Nguyên nhân 

Có nhiều khả năng, trầm cảm là do sự kết hợp của yếu tố di truyền, sinh học, môi trường và tâm lý.

Bệnh trầm cảm là rối loạn của não bộ. Công nghệ hình ảnh não, chẳng hạn như hình ảnh cộng hưởng từ (MRI), đã chỉ ra rằng não bộ của những người bị trầm cảm nhìn khác hơn so với những người không bị trầm cảm. Các bộ phận của não liên quan đến tâm trạng, suy nghĩ, giấc ngủ, ăn không ngon, và hành vi xuất hiện khác nhau. Tuy nhiên, những hình ảnh này không tiết lộ lý do tại sao trầm cảm đã xảy ra. Họ cũng không thể được sử dụng để chẩn đoán trầm cảm. 

Một số loại trầm cảm có xu hướng trong gia đình. Tuy nhiên, trầm cảm cũng có thể xảy ra ở những người không có lịch sử gia đình có bệnh trầm cảm. Các nhà khoa học đang nghiên cứu các gen nhất định có thể làm cho một số người dễ bị trầm cảm. Một số nghiên cứu di truyền học cho thấy rằng nguy cơ trầm cảm là kết quả của sự ảnh hưởng của một số gen hoạt động cùng với môi trường hoặc các yếu tố khác. Ngoài ra, chấn thương tâm lý như, mất một người thân yêu, một mối quan hệ khó khăn, hoặc bất kỳ tình huống căng thẳng có thể gây ra một giai đoạn trầm cảm. Giai đoạn trầm cảm có thể xảy ra có hoặc không có sự kích thích rõ ràng.

Các dấu hiệu và triệu chứng

“Tôi thực sự gặp khó khăn để ra khỏi giường vào buổi sáng. Tôi chỉ muốn giấu dưới tấm chăn và không nói chuyện với bất cứ ai. Tôi không muốn ăn, tôi sụt cân rất nhiều, và mất đi niềm vui. Tôi rất thường xuyên mệt mỏi, và không ngủ ngon vào ban đêm. Nhưng tôi biết tôi phải tiếp tục đi làm bởi vì tôi có một công việc. Cảm giác như không thể làm gì, như không có gì được thay đổi hoặc trở nên tốt hơn.”

Những người bị bệnh trầm cảm, tuy không phải tất cả, có các triệu chứng tương tự như trên. Mức độ nghiêm trọng, tần số, và thời gian của các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào từng cá nhân và bệnh tật đặc biệt của mình. 

  • Dai dẳng buồn, lo lắng, hoặc cảm giác “trống rỗng”
  • Cảm giác tuyệt vọng hay bi quan 
  • Cảm giác tội lỗi, vô dụng, hoặc bất lực 
  • Dễ bị kích thích, bồn chồn 
  • Mất quan tâm trong hoạt động hoặc sở thích đã từng ham thích, bao gồm cả quan hệ tình dục 
  • Mệt mỏi và giảm năng lượng
  • Khó tập trung, ghi nhớ chi tiết, và ra quyết định 
  • Mất ngủ, tỉnh táo vào buổi sáng sớm hoặc ngủ quá nhiều 
  • Ăn quá nhiều, hoặc mất cảm giác ngon miệng 
  • Ý nghĩ tự tử, tự tử 
  • Đau nhức hoặc đau đầu, đau bụng, hoặc các vấn đề tiêu hóa không dễ dàng ngay cả với điều trị. 

Chẩn đoán 

Trầm cảm, thậm chí các trường hợp nghiêm trọng nhất, có thể được điều trị hiệu quả. Bước đầu tiên để nhận được điều trị thích hợp là đến một bác sĩ hoặc chuyên gia sức khỏe tâm thần. Một số loại thuốc, và một số bệnh như virus hoặc rối loạn tuyến giáp, có thể gây ra các triệu chứng giống như bệnh trầm cảm. Một bác sĩ có thể loại trừ những khả năng này bằng cách làm một bài kiểm tra kỳ thi, phỏng vấn, và qua thí nghiệm vật lý. Nếu bác sĩ không tìm thấy các yếu tố y khoa có thể gây ra trầm cảm, bước tiếp theo là đánh giá tâm lý. 

Bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một chuyên gia sức khỏe tâm thần, những người cần thảo luận với bạn bất kỳ tiền sử gia đình của bệnh trầm cảm hoặc rối loạn tâm thần khác, và có được một lịch sử đầy đủ các triệu chứng của bạn. Bạn nên thảo luận khi các triệu chứng bắt đầu, chúng đã kéo dài bao lâu, mức độ nghiêm trọng, và liệu chúng đã có xảy ra trước đây, và nếu như vậy, làm thế nào được điều trị. Các chuyên gia sức khỏe tâm thần cũng có thể hỏi nếu bạn đang sử dụng rượu hoặc ma túy, và nếu bạn đang nghĩ về cái chết hoặc tự sát. 

Các bệnh khác có thể xảy đến trước trầm cảm, và khiến gây ra nó, hoặc là hậu quả của nó. Tuy nhiên, trầm cảm và các bệnh khác tương tác khác nhau ở những người khác nhau. Trong mọi trường hợp, bệnh xảy ra đồng thời cần phải được chẩn đoán và điều trị. 

Rối loạn lo âu, rối loạn như căng thẳng sau chấn thương (PTSD), rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn hoảng sợ, ám ảnh xã hội, thường đi kèm với trầm cảm. PTSD có thể xảy ra sau khi một người trải qua một sự kiện đáng sợ hay thử thách, chẳng hạn như một cuộc tấn công bạo lực, bạo hành, lạm dụng, thiên tai, tai nạn, khủng bố, chiến tranh. Người trải qua PTSD đặc biệt dễ rơi vào trầm cảm. 

Lạm dụng rượu và chất gây nghiện khác cũng có thể gây ra trầm cảm. Nghiên cứu cho thấy rối loạn tâm trạng và lạm dụng chất thường xuất hiện cùng nhau. 

Trầm cảm cũng có thể xảy ra với các bệnh nội khoa nghiêm trọng khác như bệnh tim, đột quỵ, ung thư, HIV / AIDS, tiểu đường, và bệnh Parkinson.

Bài viết không nhằm xác nhận hoặc thay thế cho lời khuyên, chẩn đoán hoặc điều trị chuyên nghiệp. Hãy tham khảo lời khuyên của chuyên gia sức khỏe tâm thần hoặc dịch vụ y tế chuyên môn nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào.

bởi Dr. Lê Thành Tuấn, Ph. D. Clinical Psychology
Nguồn: tamvan.org

Bạn đang sống hay chỉ đang tồn tại?

Sự tồn tại cần phải có sự sống bên trong để điều khiển cái lớp vỏ được tồn tại bên ngoài. Cái sống động bên trong mới thật sự là cái tinh tuý, cái chất liệu của sự sống. 

Hamlet là nhân vật nổi tiếng của đại văn hào William Shakespeare. Không phải người ta đánh giá qua sự nổi tiếng của tác giả, mà họ nhận được cảm xúc từ câu chuyện xung quanh chàng hoàng tử Hamlet cùng với bối cảnh hoàng tộc, nơi chàng được sinh ra và cũng chính nơi đó đã làm cho anh có một mối thù gia tộc. Kẻ thù không ai khác chính là chú ruột của anh, Vua Claudius, người đã mưu phản, giết chết nhà vua, đoạt ngai vàng và người mẹ yêu dấu của anh.

Trải suốt nhiều đêm trăn trở với ý muốn trả thù và có lần anh đã tìm được cơ hội tiếp cận kẻ đoạt ngai vàng, nhưng anh đã không muốn ra tay, chỉ vì tên vua độc ác đang cầu nguyện và anh sợ rằng trả thù trong khi kẻ thù cầu nguyện thì linh hồn sẽ được lên thiên đàng, như vậy sẽ không xứng đáng với tội mưu sát cha mình. Ngược lại, vua Claudius nỗ lực tìm cách giết chàng để trừ hậu hoạ. Cuối cùng, ông ta đã thắng, khi tổ chức cuộc đấu kiếm giữa anh và Laertes. Nhà vua cho người tẩm thuốc độc vào lưỡi gươm và anh đã bị mũi kiếm tai hại đó kết liễu đời mình.

Trong bối cảnh xã hội luôn thay đổi, cái thiện và cái ác pha trộn vào nhau khiến chúng ta khó lòng phân biệt thật, giả. Chính vì vậy mà việc quyết định chọn cho mình lối sống thật sự là sống không đơn giản chút nào. Chúng ta đang tồn tại hay đang thật sự sống? Sự tồn tại hay là sự hiện hữu chỉ chứng minh một điều rằng tôi ở đây cùng với mọi người, chẳng khác nào sự tồn tại của một vật thể trống rỗng bên trong, và hoàn toàn vô dụng.

Sự tồn tại cần phải có sự sống bên trong để điều khiển cái lớp vỏ bên ngoài, và cái sống động bên trong mới thật sự là cái tinh tuý của sự sống. Hamlet đã từng sống hay chỉ tồn tại? Khi anh ta đã để vuột mất cơ hội hành động để dành lấy sự sống an toàn. Sự an toàn đó đã không đến với anh vì anh đã không nhìn thấy cơ hội lớn đó. Từ đó, cuộc đời Hamlet đã lâm vào hoàn cảnh tồn tại, và thân xác anh trở thành lớp vỏ bọc của sự hiện hữu, còn tâm trí anh đã mất đi sự tinh tế của một Hoàng Tử, vốn có thể trở thành vị vua cai trị đất nước mình.

Một câu chuyện kể rằng, có một người lính La mã cảm thấy cuộc sống quá khốn khổ, anh ta mất hết tinh thần, nhuệ khí, những ngày tháng trôi qua đối với anh chỉ là chuỗi ngày đau khổ. Anh lính đến xin phép vua cho anh được tự sát để kết liễu đời mình. Nhà vua nhìn anh và hỏi: Này, đã có lúc nào nhà ngươi thực sự sống chưa mà xin chết?” Có người đã định nghĩa: “Chết là không còn sống, không còn tồn tại trên đời”.

Nhưng sống không có nghĩa là chưa chết. Nó đòi hỏi một tiêu chuẩn cao hơn. Sống cần phải làm điều gì có ý nghĩa thật sự.

Các nhà nghiên cứu đã khảo sát ba thành phần: các vận động viên, những người trong nhà dưỡng lão, và các bệnh nhân trong cơn hấp hối. Thành phần thứ nhất thật sự sống trong thân thể khoẻ mạnh, thành phần thứ hai là sống đủ để sống và cuối cùng là những người chỉ “sống thoi thóp” chờ đợi giây phút qua đời. Có những người đang thực sự sống trong lý tưởng vững vàng, biết cống hiến khả năng của mình cho người, cho đời, những người khác thì ráng sống cho qua ngày và chỉ sống với chính mình, không quan tâm đến người khác. Cũng có những người chưa thật sự sống, những ngày tháng trôi qua trên mặt đất này cũng chỉ là những chuỗi ngày buồn nản và chán chường, như câu hỏi của vị vua trong câu chuyện: “Đã có lúc nào nhà ngươi thực sự sống chưa?”

Có thể chúng ta đã chịu đựng quá nhiều sự nghiệt ngã của một xã hội lừa dối, nhân phẩm con người bị coi khinh, xem mạng người rẻ hơn thau cám lợn và cuộc sống đó trở nên quen thuộc. Khi không còn ý chí đấu tranh cho sự sinh tồn, thì con người trong xã hội nghiệt ngã đó cũng chỉ là sự tồn tại, tồn tại trong sự thoi thóp của một đời người, trong im lặng và tiếp nhận những gì trước đây mình không chấp nhận.

Năng lực của sự sống không chỉ dựa vào cái thân xác hiện hữu, nhưng còn từ chất liệu đem lại sự sống. Sự sống đó tiềm ẩn bên trong, là động lực của sự sống. Cho dù phải đối diện với hoàn cảnh nào, dù nghèo, giàu, hay đối diện với nghịch cảnh khủng khiếp hơn, so với hoàn cảnh của chàng Hamlet, thì năng lực đó vẫn tồn tại trong một thân xác hay chết để tạo nên một thân xác có sự thay đổi, sống động, tinh tế và hướng thượng.

Câu hỏi Sống hay tồn tại? giúp cho chúng ta phải suy nghĩ, rồi quyết định hành động một cách khôn ngoan cho một cuộc đời có ý nghĩa. Chúng ta tồn tại, vì chúng ta sống. Không phải chúng ta sống vì chúng ta tồn tại.

Bạn thực sự nhận thấy mình đang sống hay đang tồn tại?

Trích từ Nguồn Tình Yêu

Cô bé bị cưỡng hiếp từ chối phá thai

Sau khi bị tấn công và cưỡng hiếp dã man, cô gái trẻ phát hiện mình có thai. Khi các bác sĩ đề nghị cô phá thai, người mẹ trẻ dũng cảm này đã từ chối, và sự lựa chọn đó chính là một lời chứng tuyệt vời!
Ảnh bởi Life Action News

Lianna – một bé gái 12 tuổi nằm bên vệ đường – yếu ớt bám víu sự sống. Hai tên đàn ông đã cưỡng hiếp cô bé đáng thương và bỏ mặc cô cho đến chết. Khuôn mặt và cổ cô bị cắt sâu trong vụ hãm hiếp, những vết sẹo ấy sẽ tồn tại suốt đời. Cô nghĩ chắc chắn cuộc đời mình đã kết thúc – rằng mình sẽ không bao giờ được cảm nhận hạnh phúc, bình yên hay bất kỳ mối quan hệ bình thường nào nữa.

Sau đó, Lianna biết mình đã mang thai do bị cưỡng hiếp. Bác sĩ thấy rằng đây chỉ là một vết sẹo từ vụ việc. Ông đề nghị cô biện pháp dễ dàng khắc phục vết thương này – một thủ tục đơn giản – phá thai.

Người mẹ dũng cảm từ chối phá thai

Bác sĩ khuyến khích Lianna phá thai, rằng đó là điều đúng đắn vì nó sẽ giúp cô không bị ám ảnh liên tục về vụ cưỡng hiếp.

Là một đứa trẻ 12 tuổi bị tổn thương, đã trải qua điều tồi tệ nhất cuộc đời, Lianna hiểu cuộc sống này quý giá như thế nào. Cô biết rằng kết thúc cuộc đời của đứa bé trong bụng sẽ không giúp chữa lành vết sẹo hoặc xóa đi những chuyện kinh hoàng mà cô từng chịu đựng.

Vì vậy, cô bé đã hỏi bác sĩ một câu quan trọng: Phá thai có làm dịu cơn đau và giúp cô quên đi chuyện mình bị hãm hiếp không?

Bác sĩ trả lời, “không.”

Lianna quyết định giữ đứa bé. Cô chân thành từ chối phá thai bất chấp lời đề nghị của bác sĩ.

“Nếu phá thai không giúp chữa lành bất cứ điều gì, thì tôi không hiểu tại sao phải làm vậy”, cô nói. “Tôi chỉ biết rằng tôi có một mạng sống đang tồn tại trong tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ về cha ruột của đứa bé. Nó là con tôi. Nó đang nằm trong bụng tôi. Chỉ cần biết rằng đứa bé cần tôi, và tôi cần đứa bé… điều này khiến tôi muốn lao động, muốn có một công việc [để nuôi nấng đứa bé].”

Quyết định cứu sống cả hai

Sau vụ hãm hiếp dữ dội khiến Lianna hấp hối, cô đã chiến đấu với chứng rối loạn căng thẳng hậu chấn thương. Ký ức ngày ấy tồi tệ đến nỗi tâm trí cô không thể không nghĩ đến tự tử hết lần này đến lần khác. Nhưng cô không thể làm thế vì biết rằng cô không chỉ tự giết bản thân mình mà đồng thời còn lấy đi mạng sống của bé gái đang lớn lên trong bụng mình. Chúa biết cô gái trẻ này cần gì để được cứu.

“Trong trường hợp của tôi, hai mạng sống đã được cứu. Tôi cứu mạng con gái mình, và con bé cũng đã cứu mạng tôi.”

Việc muốn giữ thai nhi giống như Lianna không phải là hiếm trong vòng những nạn nhân bị hãm hiếp.

Kết quả nghiên cứu 

Trong nghiên cứu về các nạn nhân mang thai do bị cưỡng hiếp, Tiến sĩ Sandra Mahkorn phát hiện ra rằng 75-85% trong số họ quyết định không phá thai, vì tin rằng phá thai chỉ là hành động bạo lực đối với cơ thể chính họ và con cái họ, rằng cuộc đời đứa bé có ý nghĩa và mục đích riêng mà hiện tại chúng ta chưa hiểu được.

Nghiên cứu cho thấy những cô gái quyết định phá thai sau khi bị hãm hiếp có xu hướng cảm thấy tội lỗi, trầm cảm, tự ti và oán giận đàn ông. Phá thai không những không giúp giảm bớt mà còn làm tăng thêm gánh nặng tâm lý của họ.

94% phụ nữ quyết định giữ đứa bé nói rằng phá thai không phải là giải pháp hay cho vấn đề mang thai do bị hiếp dâm, trong khi 93% phụ nữ chọn phá thai nói rằng phá thai “không phải là giải pháp tốt cho vấn đề của họ” – và họ sẽ không khuyến khích những người gặp tình huống giống họ làm điều tương tự. Thực tế, nhiều phụ nữ quyết định giữ thai nhi sau khi bị hãm hiếp nói rằng đứa bé là điều tốt đẹp duy nhất giúp họ thoát khỏi trải nghiệm kinh hoàng ấy.

Phước hạnh đặc biệt

Lianna đồng ý với điều này. Con gái cô đã mang đến ý nghĩa mới cho cuộc đời cô. Cô sớm nhận ra: từng nụ cười quý giá từ cô con gái bé bỏng đã thay thế nỗi đau trong cô bằng một điều mạnh mẽ hơn nhiều – tình yêu thương. Và con gái cô dường như cũng nhận ra điều đó.

Ảnh từ  Live Action News

Khi con gái Lianna mới chỉ 4 tuổi, cô bé nói với mẹ: “Mẹ ơi, cảm ơn mẹ vì đã cho con cuộc sống.” Món quà bé bỏng từ Chúa đã mang đến cho Lianna mọi sự chữa lành cô cần.

“Khi con bé nói điều đó… Tôi nhận ra rằng chính con bé đã cho tôi cuộc sống của tôi.”

Con gái Lianna hiện đã 23 tuổi, và tình mẹ con giữa hai người thật tuyệt vời. Một tình yêu thương hoàn toàn đáng giá cho tất cả những nỗi đau và chịu đựng của Lianna.

“Mặc dù [bị hãm hiếp] là chuyện rất khó khăn, nhưng nếu tôi phải trải qua chuyện đó [một lần nữa] để được gặp và yêu thương con gái mình, tôi sẵn sàng trải qua một lần nữa.”

Con gái cô không phải là hệ quả tích cực duy nhất đến từ thử thách này. Hiện nay Lianna đang đi khắp thế giới trong vai trò diễn giả bảo vệ sự sống. Cô cũng sáng lập tổ chức của mình – Loving Life – với nhiệm vụ phát huy giá trị cuộc sống, cũng như giúp đỡ các nạn nhân của bạo lực và lạm dụng.

Nguồn: godupdates.com

Hồng Nhạn dịch


Trong đen tối bi kịch 11/9, lòng tốt đã mang đến hy vọng

Khi bi kịch ập đến, mọi người và mọi thứ xung quanh dường như đều trở nên tồi tệ. Nhất là khi bi kịch ấy do chính con người gây ra, như sự kiện kinh hoàng ngày 11 tháng 9 năm 2001. Nhưng điều đặc biệt là: khi mọi thứ đều tối tăm thì ánh sáng càng được thấy rõ và càng chiếu soi rực rỡ. Với nhiều chuyến bay buộc phải chuyển hướng giữa chừng do sự kiện kinh hoàng đó, người dân Gander – New Foundland chính là ánh sáng rực rỡ cho mọi người.

Sau đây là lời tường thuật của một tiếp viên trên chuyến bay Delta 15, vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Vào sáng thứ ba, ngày 11 tháng 9, chúng tôi cách Frankfurt khoảng 5 giờ đồng hồ, đang bay qua Bắc Đại Tây Dương.

Đột nhiên, tôi được yêu cầu đến buồng lái ngay lập tức để gặp cơ trưởng. Ngay khi tới đó, tôi nhận thấy cả phi hành đoàn đều căng thẳng. Cơ trưởng đưa cho tôi một tin nhắn từ trụ sở chính Delta ở Atlanta: tất cả các đường bay đi qua lục địa Hoa Kỳ đều đóng cửa. Hạ cánh càng sớm càng tốt tại sân bay gần nhất. 

Không ai nói một lời về ý nghĩa của chuyện này. Chúng tôi biết đây là tình huống nghiêm trọng và cần nhanh chóng tìm ra nơi hạ cánh. Cơ trưởng xác định sân bay gần nhất nằm ở 400 dặm đằng sau chúng tôi, ở Gander, New Foundland.

Ông yêu cầu bộ điều khiển giao thông Canada phê duyệt thay đổi tuyến đường và đã được phê duyệt ngay lập tức mà không có bất kỳ câu hỏi nào. Sau đó, chúng tôi phát hiện lý do họ không hề do dự phê duyệt yêu cầu này.

Trong khi phi hành đoàn chuẩn bị hạ cánh, một tin nhắn khác đến từ Atlanta cho biết về những hoạt động khủng bố ở khu vực New York. Vài phút sau, chúng tôi có tin về vụ không tặc.

Chúng tôi quyết định NÓI DỐI hành khách khi vẫn còn ở trên không. Chúng tôi nói rằng máy bay có vấn đề phụ tùng đơn giản nên cần hạ cánh tại sân bay gần nhất ở Gander, New Foundland để kiểm tra.

Chúng tôi hứa sẽ cung cấp thêm thông tin sau khi hạ cánh ở Gander. Có rất nhiều hành khách cằn nhằn, nhưng chẳng có gì mới lạ! Bốn mươi phút sau, chúng tôi đáp xuống Gander. Giờ địa phương tại Gander là 12:30 PM, 11:00 AM ở Hoa Kỳ.

Đã có khoảng 20 máy bay khác từ ​​khắp nơi trên thế giới đã phải vòng lại với cùng một hành trình giống chúng tôi.

Sau khi chúng tôi hạ cánh, cơ trưởng thông báo: “Thưa quý bà và quý ông, chắc các bạn đang tự hỏi liệu tất cả những chiếc máy bay xung quanh chúng ta đều có vấn đề về phụ tùng như chúng ta. Sự thật là chúng ta ở đây vì một lý do khác.”

Sau đó, ông tiếp tục giải thích một chút về tình hình ở Hoa Kỳ. Có những tiếng thở hổn hển và ánh mắt hoài nghi. Cơ trưởng thông báo cho hành khách rằng Trạm kiểm soát mặt đất ở Gander khuyên chúng tôi ở lại.

Chính phủ Canada chịu trách nhiệm về tình hình của chúng tôi và không ai được phép xuống máy bay. Không ai trên mặt đất được phép đến gần bất kỳ máy bay nào. Chỉ có cảnh sát sân bay sẽ tuần tra định kỳ xung quanh, quan sát máy bay của chúng tôi và đi đến chiếc kế tiếp.

Trong một giờ sau, thêm nhiều máy bay đã hạ cánh và Gander cuối cùng có 53 máy bay từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có 27 máy bay thương mại của Mỹ.

Trong khi đó, những mẩu tin bắt đầu xuất hiện trên đài phát thanh: máy bay đã đâm thẳng vào Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York và vào Lầu Năm Góc ở DC.

Mọi người cố gắng sử dụng điện thoại di động, nhưng không thể kết nối vì hệ thống di động ở Canada khác Mỹ. Một số người gọi được, nhưng máy chỉ chuyển đến tổng đài viên ở Canada, họ nói rằng các đường dây đến Hoa Kỳ đều đã bị chặn hoặc bị kẹt.

Vào buổi tối, tin tức cho biết rằng tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới đã sụp đổ và vụ không tặc thứ tư đã diễn ra. Đến giờ, cả tinh thần và thể chất của hành khách đã hoàn toàn kiệt quệ, chưa kể nỗi sợ hãi bao trùm, mọi người đều bình tĩnh đến kinh ngạc.

Chỉ cần nhìn ra cửa sổ để thấy 52 chiếc máy bay khác bị mắc kẹt, chúng tôi biết rằng mình không phải là người duy nhất lâm vào tình trạng khó khăn này.

Trước đó chúng tôi đã được thông báo rằng mọi người sẽ được phép rời khỏi máy bay cùng một lúc. Lúc 6 giờ tối, sân bay Gander cho biết lượt xuống máy bay của chúng tôi là 11 giờ sáng hôm sau.

Hành khách không hài lòng, nhưng họ chỉ cam chịu tin tức này mà không càm ràm và bắt đầu chuẩn bị qua đêm trên máy bay.

Gander hứa với chúng tôi sẽ chăm sóc y tế (nếu cần), cung cấp nước và dịch vụ vệ sinh.

Và họ đã làm trọn lời hứa.

May mắn thay, chúng tôi không có tình huống y tế nào đáng lo ngại. Có một phụ nữ trẻ mang thai 33 tuần. Họ chăm sóc cô ấy thật sự rất tốt. Đêm trôi qua không có sự cố nào, mặc dù đương nhiên giấc ngủ của hành khách không hề thoải mái.

Khoảng 10:30 sáng ngày 12, một đoàn xe buýt trường học xuất hiện. Chúng tôi xuống máy bay và được đưa đến nhà ga, tại đó chúng tôi đi qua trạm kiểm soát Nhập cảnh và Hải quan, sau đó phải đăng ký với Hội Chữ thập đỏ.

Sau đó, phi hành đoàn tách khỏi hành khách và được đưa lên xe đi đến một khách sạn nhỏ. Chúng tôi không biết hành khách sẽ đi đâu. Thị trấn Gander có dân số 10,400 người, và họ có đến khoảng 10,500 hành khách phải chăm sóc từ tất cả máy bay đáp xuống Gander!

Họ yêu cầu chúng tôi yên tâm thư giãn tại khách sạn và sẽ liên lạc khi các sân bay Mỹ mở cửa trở lại, nhưng sẽ không nhanh chóng.

Khi đến khách sạn và bật TV, chúng tôi biết rằng bọn khủng bố đã dừng lại, 24 giờ sau khi mọi thứ bắt đầu.

Chúng tôi có nhiều thời gian để phát hiện rằng người dân Gander cực kỳ thân thiện. Họ gọi chúng tôi là “người máy bay”. Chúng tôi tận hưởng lòng hiếu khách của họ, khám phá thị trấn Gander và đã có khoảng thời gian khá vui vẻ.

Hai ngày sau, chúng tôi nhận được cuộc gọi và được đưa trở lại sân bay Gander. Chúng tôi được đoàn tụ với hành khách và tìm hiểu những gì họ đã làm trong hai ngày qua.

Điều đó thật không thể tin được.

Gander và tất cả những nơi lân cận (trong bán kính khoảng 75km) đã đóng cửa mọi trường trung học, phòng họp, nhà nghỉ và mọi địa điểm hội tụ văn hoá lớn. Họ chuyển đổi tất cả các cơ sở này thành khu vực lưu trú cho tất cả những du khách đang bị mắc kẹt.

Một số nơi được chuẩn bị giường, nơi khác có chiếu, túi ngủ và gối.

Họ yêu cầu TẤT CẢ các học sinh trung học tình nguyện dành thời gian chăm sóc các vị khách.

218 hành khách của chúng tôi đã dừng chân tại thị trấn Lewisporte, cách Gander khoảng 45km, tại đó họ được đưa vào một trường trung học. Nếu có phụ nữ nào muốn ở trong cơ sở dành riêng cho phụ nữ, họ cũng được sắp xếp như ý muốn.

Gia đình được ở cùng nhau. Tất cả hành khách cao tuổi được đưa đến nhà dân.

Còn bà bầu trẻ? Cô được đưa vào một nhà dân ngay bên kia đường sau khi được kiểm tra tại cơ sở Chăm sóc khẩn cấp 24 giờ. Có một nha sĩ và cả y tá nam nữ vẫn túc trục cùng mọi người trong suốt thời gian đó.

Mỗi người được gọi điện thoại và email đến Hoa Kỳ cũng như toàn thế giới mỗi ngày một lần. Vào ban ngày, hành khách được đi “thăm quan”.

Một số người đã đi du thuyền trên hồ và bến cảng. Một số khác thì lang thang trong các khu rừng.

Các tiệm bánh địa phương vẫn luôn mở để làm bánh mì tươi cho khách.

Thức ăn được mọi cư dân chuẩn bị và mang đến các trường học. Mọi người được đưa đến nhà hàng tùy chọn và thưởng thức những bữa ăn tuyệt vời. Mọi người còn được hỗ trợ giặt quần áo, vì hành lý vẫn còn trên máy bay.

Nói cách khác, mọi nhu cầu của hành khách bị mắc kẹt đều được đáp ứng.

Hành khách đã khóc khi kể cho chúng tôi những chuyện này. Cuối cùng, khi có thông báo rằng các sân bay Hoa Kỳ đã mở cửa trở lại, họ đã được đưa đến sân bay đúng giờ và không một hành khách nào mất tích hoặc trễ giờ. Hội Chữ thập đỏ địa phương nắm tất cả các thông tin về nơi ở của mỗi hành khách, biết họ phải đi máy bay nào và vào lúc mấy giờ. Mọi thứ phối hợp thật nhịp nhàng.

Thật không thể tin được, thật tuyệt vời.

Khi lên máy bay, mọi người đều biết tên nhau. Họ nói chuyện về thời gian ở lại thị trấn này, rằng họ đã được đối xử tử tế như thế nào. Chuyến bay trở về Atlanta của chúng tôi trông giống như một bữa tiệc bay. Cả phi hành đoàn đều ngạc nhiên về hành khách của mình. Điều đó thật lạ thường.

Hành khách vô cùng thân thiết, họ gọi nhau bằng tên, trao đổi số điện thoại, địa chỉ và email với nhau.

Và rồi một điều rất bất thường đã xảy ra.

Một hành khách đã hỏi tôi liệu anh ấy có thể thông báo qua hệ thống PA không. Chúng tôi chưa bao giờ cho phép điều đó. Nhưng lần này thì khác. Tôi nói “tất nhiên” và đưa mic cho anh ta. Anh nhắc nhở mọi người về những gì họ vừa trải qua trong những ngày qua.

Anh nhắc nhở về lòng hiếu khách của những người hoàn toàn xa lạ dành cho họ.

Anh muốn làm gì đó để đáp lại những người dân tốt bụng tại Lewisporte.

Anh cho biết anh sẽ thành lập Quỹ Ủy Thác DELTA 15 (số hiệu chuyến bay của chúng tôi). Mục đích của quỹ này là trao học bổng đại học cho các học sinh trung học của Lewisporte.

Anh kêu gọi mọi người cùng quyên góp. Khi tờ giấy hứa quyên góp đầy kín với số tiền, tên, số điện thoại và địa chỉ, tổng số tiền lên đến hơn 14.000 đô-la!

“Một quý ông – MD từ Virginia – hứa sẽ thu thập các khoản quyên góp và thực hiện công việc hành chính với học bổng. Ông cũng sẽ chuyển tiếp đề xuất này đến Delta Corporate và kêu gọi họ quyên góp”.

Khi tôi viết bài viết này, quỹ tín thác đã lên đến hơn 1,5 triệu đô-la, đã hỗ trợ 134 sinh viên học đại học.

“Tôi chia sẻ câu chuyện này vì chúng ta cần những câu chuyện tuyệt vời ngay bây giờ. Tôi được tiếp thêm một chút hy vọng vì biết rằng đâu đó vẫn tồn tại những con người vô cùng tử tế với những khách lạ vô tình “rơi” vào vùng đất của họ.

Câu chuyện nhắc nhở tôi rằng trên thế giới này còn biết bao điều tốt đẹp.

Mặc cho mọi điều mục nát đang diễn ra trong thế giới ngày nay, câu chuyện này khẳng định rằng thế giới vẫn còn rất nhiều người tốt, và khi mọi thứ trở nên tồi tệ, lòng tốt sẽ vượt lên và mang đến hy vọng.

Nguồn: www.luminstory.org

Hồng Nhạn dịch

Bạn không thể đánh giá trầm cảm qua vẻ ngoài

“Họ có vẻ như rất hạnh phúc. Họ có tất cả mọi thứ”.
“Họ chẳng có gì để phàn nàn cả.”
Có lẽ bạn đã nói về ai đó như vậy, hoặc cũng có thể là về chính bạn.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra chứng “trầm cảm cười” – thuật ngữ chuyên ngành hơn là “trầm cảm không điển hình” – mô tả một người dường như “có tất cả”, họ trông hạnh phúc, nhưng ẩn sau vẻ ngoài vui vẻ, họ đang phải vật lộn với trầm cảm.

Một bài báo mô tả: “Rất khó để phát hiện người mắc chứng “trầm cảm cười”. Có vẻ như họ không có lý do để buồn – họ có công việc, nhà cửa, con cái và bạn đời. Họ mỉm cười khi bạn chào họ, trò chuyện rôm rả với bạn. Tóm lại, họ đeo mặt nạ ra thế giới bên ngoài, giả vờ sống cuộc sống bình thường và năng động.”

Loại trầm cảm này rất khó xác định, đặc biệt là với ảnh hưởng của mạng xã hội – chỉ chia sẻ những thứ nổi bật trong cuộc sống hoặc chỉ đăng những gì chúng ta muốn mọi người nghĩ về mình. Hơn nữa, thật khó để tìm kiếm sự giúp đỡ khi chúng ta mắc phải chứng “trầm cảm không điển hình” này, bởi vì có lẽ “những người khác sẽ không hiểu”, hoặc “tôi không thể cho người ta biết mình đang phải đấu tranh, vì mọi người đều biết tôi là người hạnh phúc và hoà đồng”.

Vậy chúng ta phải làm gì để vượt qua cuộc chiến bên trong chính mình và hỗ trợ những người đang phải đối phó với chứng “trầm cảm cười”?

Xây dựng mối tương giao hai chiều. Để làm điều này, chúng ta phải cố gắng dành thời gian đầu tư chất lượng cho những mối quan hệ tin cậy, đồng cảm, trong sáng, không phán xét và minh bạch. Đủ tin cậy và đồng cảm cho bạn nói ra những cảm xúc rối rắm chính bạn cũng không có ngôn ngữ để thể hiện. Những mối tương giao như vậy cảm thấy bớt cô đơn, và thêm sức cho chúng ta vượt qua cuộc sự trầm cảm mà người khác không nhìn thấy trong chúng ta. Chúng ta cần những người cùng đồng hành, nắm tay chúng ta, giữ cho chúng ta không ngã khụy.

Trung thực là tốt nhất. Tôi thường nghe rằng “Bạn bè tôi có thể tin rằng tôi sẽ có mặt vì họ, nhưng tôi không thể trông mong họ sẽ ở đó vì tôi”. Một mối quan hệ phải tương tác hai chiều. Hãy cho phép bản thân mong đợi từ người khác những điều họ có thể mong đợi từ bạn. Với suy nghĩ này, hãy thành thật với những người bạn có thể kết nối với họ. Có thể là thành viên gia đình, một người bạn thân, đồng nghiệp hoặc một người bạn thích nói chuyện nhưng lại không quá thân thân thiết. Chia sẻ cảm xúc của bạn với họ sẽ giúp tình bạn mới mẻ, đẹp đẽ nảy nở. Bất kể bạn chia sẻ cảm xúc với ai, hãy trung thực. Hãy đặt xuống chiếc mặt nạ mà bạn thường đeo, và hãy là chính mình – với mọi điều tốt lành, mọi cuộc đấu tranh.

Tương tự như vậy, hãy là người sẵn sàng giúp đỡ người khác. Hãy là người mà bạn bè có thể trung thực tâm tình. Hãy hỏi thăm họ. Xóa bỏ mọi rào cản tạo nên bởi vẻ bề ngoài. Tất cả chúng ta sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều khi có thể là chính mình với người khác.

Hành động tử tế, làm việc lành – Sự tử tế và hạnh phúc sẽ mang đến “hiệu ứng lan tỏa”. Ví dụ, giữ cửa cho ai đó bước vào, mỉm cười với người lạ, nói lời cảm ơn, trả tiền cà phê cho người đứng chờ sau bạn. Những hành động dường như nhỏ bé này sẽ tạo ra tác động lớn vô cùng. Chúng không chỉ động chạm cuộc sống của người khác theo cách tốt đẹp, mà còn khiến bản thân chúng ta cảm thấy tuyệt vời, tích cực, hy vọng. Những hành động nhỏ này sẽ mang lại ánh sáng cho thế giới. Chúng khiến người khác cảm thấy được quan tâm, khiến chúng ta vượt lên chính mình, ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống người khác và làm những điều tốt đẹp. Lần sau, hãy chú ý khi bạn làm điều này cho ai đó. Họ phản ứng thế nào? Họ có ngạc nhiên không? Họ có cười nhiều hơn một chút không? Mắt họ có sáng lên không? Bạn phản ứng ra sao khi bạn làm một điều tốt đẹp, hoặc khi ai đó làm điều này cho bạn? Khoảnh khắc vui vẻ, hy vọng, tích cực ấy có thể ảnh hưởng đến chúng ta và người khác theo những cách vĩ đại hơn mà chúng ta đã không chú ý trước đó.

Nguồn: patheos.com

Hồng Nhạn dịch

Phía sau sự chết là gì?

Chắc hẳn rằng ai cũng đã từng ít nhất một lần nghĩ về sự chết. Không những thế, có rất nhiều người luôn mang trong mình một cảm giác chông chênh, lo sợ về cái chết. Vậy sự chết có đáng sợ không? Chết có phải là hết?
Ảnh từ wallpapersexpert.com

Mỗi ngày trôi qua, chúng ta chứng kiến rất nhiều người lặng lẽ rời xa cuộc đời. Có người chết vì tai nạn, vì thiên tai, vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì thù oán, vì tình yêu, vì áp lực, vì quyền, vì tiền… Không ai có thể từ chối cái chết, và cái chết cũng không khước từ một ai, giới tính nào, lứa tuổi nào, màu da nào. Sự chết có thể xảy ra và hiện diện bất kì nơi đâu, bất kì thời gian nào. Chúng ta đều chắc chắn rằng bản thân rồi cũng phải trải qua sự chết tuy không biết chính xác ngày giờ. Sự chết là kết thúc cuộc đời của con người ở thế gian, là đưa mọi người về cùng một mẫu số không.

Ðiều gì xảy ra sau khi tôi chết?

Khi đối mặt với cái chết, hay khi nói về cái chết, trong tâm trí chúng ta sẽ có rất nhiều cảm xúc, suy nghĩ và đặt ra nhiều câu hỏi. Đó sẽ là cảm giác sợ hãi, sự luyến tiếc và cả đau buồn. Cũng dễ hiểu thôi vì mấy ai mà không sợ chết, bởi chết là đau đớn, chết là chúng ta lìa xa cuộc sống, xa cách những người thân yêu, bỏ lại một sự nghiệp dang dở với biết bao ước mơ, hoài bão. Chúng ta sợ chết vì sợ bị mọi người lãng quên. Chết là không còn được gặp gỡ, trò chuyện với mọi người, vắng đi sự hiện diện của ta liệu còn ai nhớ đến ta không? Con người là một sinh thể sống có thể xác và linh hồn. Vậy có bao giờ bạn tự hỏi khi chết đi thì thể xác sẽ trở về cát bụi, còn linh hồn sẽ đi về đâu? Có còn điều gì phía sau sự chết? Chết có thật sự là hết? Câu trả lời chắc chắn là chết chưa phải là hết, chết là mở ra một sự sống mới. Chúng ta đều được nghe nói đến thiên đàng và địa ngục là hai nơi con người sẽ đến sau rời trần thế. Thiên đàng có thật và địa ngục cũng có thật. Thiên đàng là tốt lành, địa ngục là đau đớn. Ai cũng mong được ở thiên đàng, sợ hãi địa ngục. Nhưng chúng ta có thật sự chắc chắn nơi mình sẽ đến là đâu không?

Ý nghĩa của đời sống này là gì?

Trong cuộc sống này, ai cũng mải mê chạy theo nhiều ham muốn, tham vọng để thỏa mãn bản thân, mà quên đi quan tâm mọi người xung quanh. Và chỉ đến khi không còn sự hiện hữu của một ai đó trên cuộc đời này, trong cuộc sống của ta, hoặc chính ta phải ra đi, cận kề cái chết, ta mới nhận ra giá trị của ai đó, giá trị của tình cảm là gì. Có những điều chỉ khi sắp chết, con người ta mới biết mình nên sống như thế nào. Cả cuộc đời ta mỏi mệt chạy theo tiền tài, danh vọng thế nhưng khi ta đứng trước cái chết chúng cũng chẳng mang cho ta niềm vui hay sự giải cứu nào. Hóa ra hạnh phúc không nằm ở vật chất, địa vị. Hạnh phúc thực sự nằm ở trái tim của tình yêu thương, sự quan tâm, sự tử tế giữa người với người. Với những ai đã từng đứng giữa ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, hay trải qua sự mất mát một người thân yêu thì chắc hẳn sẽ hiểu rõ cuộc đời này là vô thường, cái chết có thể đến với ta bất cứ khi nào, hoàn cảnh nào. Chúng ta luôn chắc chắn một điều rằng ai rồi cũng sẽ chết. Vậy tại sao chúng ta phải lo sợ về cái chết mà không nghĩ đến việc phải sống như thế nào cho ý nghĩa, sống như thế nào để khi chết đi chúng ta không có gì luyến tiếc, sống như thế nào để cái chết không còn là điều đáng sợ. Và điều quan trọng hơn là cho mình câu trả lời chắc chắn nơi sẽ ta đến sau khi rời thế gian này. Hãy nhớ rằng những gì chúng ta làm, lựa chọn khi còn sống sẽ quyết định đến tương lai chúng ta sau cái chết.

Cái chết được định cho mọi người và việc nó xảy ra khi nào chỉ là vấn đề thời gian. Đối với tất cả những cái hẹn khác trong cuộc đời ta có thể từ chối, nhưng đối với cái chết, không ai có thể tránh né hay lỗi hẹn! Con người ta cần phải biết học cách đối mặt với cái chết, và sống có ý nghĩa hơn. Nếu như còn một ngày để sống – bạn sẽ làm gì?

bởi Phan Uyên